Ải Nam Quan và Ải Bắc Quan.
Ải Nam Quan
Ải Nam Quan (nghĩa là Cửa ải nhìn về phương Nam), là một cửa khẩu biên giới của Trung Quốc trên biên giới Trung Quốc - Việt Nam. Ải Nam Quan dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Đại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở.



Đường lên biên giới Việt - Trung đi qua những ngọn núi. Đường mòn quanh co, gập ghềnh qua những sườn dốc nguy hiểm.


Ngôi làng Làng Nậm Quất. Hai dãy nhà lá nằm bên con đường lát đá. Đây có lẽ là khu dân cư, cuối đường có một khu nhà ngói khang trang hơn có lẽ là doanh trại hoặc khu gia binh




Hình ảnh chuột Mickey cầm súng đứng gác giúp ta ước đoán bức ảnh được chụp vào những năm 30, khi hình tượng chuột Mickey trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Bảng chỉ dẫn mang dáng hình cửa ải ghi rõ khoảng cách từ Đồng Đăng đến Ải Nam Quan do nhà Thanh dựng lên là 4 km. Hoạt động canh giữ cửa khẩu biên giới thể hiện qua số lượng binh sĩ và các xe quân sự.


Ải Nam Quan (trước) năm 1905. Dù hướng chụp chính diện làm cho cửa quan của Việt Nam lẫn vào công trình đồ sộ của nước lớn Trung Hoa, nhưng vẫn thấy rõ hai tầng mái của hai cửa quan. Hai phía Ải Nam Quan của Việt Nam cũng có hai bờ tường chạy về hai ngọn núi, nhưng ngắn hơn và có hình bậc thang.


Các quan chức Pháp - Hoa chụp ảnh kỉ niệm bên bức bình phong. Bức bình phong này che chắn không cho người ở cổng Bắc Quan dòm ngó sang đất Tàu.
Ải
Nam Quan nhìn từ điểm cao phía Trung Hoa. Vẫn thấy rõ bức bình phong và
cụm nhà ngói trước cổng quan. Trên đỉnh núi bên trái có một danh trại
khá lớn. Lúc này Ải Nam Quan chỉ còn một mái.

Những đứa trẻ Trung Hoa trong đất Mục Nam Quan. Mục này được tu sửa thêm do các viên quan trông nom, nhưng vẫn còn giữ bức bình phong che chắn. Ta dễ dàng nhận thấy Trấn Nam Quan chỉ còn một mái lầu và xuất hiện hàng lan can.
Ải Nam Quan năm 1931, lúc này đã không còn phần lầu.
Xử trảm một người Hoa tại khu vực Ải Nam Quan.

Cổng Trung Hoa (Chinese gate, tức Ải Nam Quan) nhìn từ phía Trung Quốc.
Ải Bắc Quan
Quan sát bức hình cho thật kỹ ta thấy: Có một căn nhà nhỏ, tường xây ... Đó chính là "CỬA BẮC QUAN" hay là "CỔNG BẮC QUAN" hay là 'TRẤN BẮC QUAN", hay là " ẢI BẮC QUAN". Có nghĩa là khách trước khi đi sang bên kia đất Trung Hoa phải trình giấy tờ ở cửa (cổng) này. Cổng này gọi là "Công quán", bây giờ gọi là "Cửa khẩu", "Cửa ải", hay là "Đồn biên phòng", hay là:"Trạm hải quan". Cổng này chính là ẢI BẮC QUAN do triều đình An nam xây lên.
Tổ Tiên ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước , muốn đứng vững trước kẻ láng giềng rộng lớn hung hãn, để "thủ đất", để giữ "thế nước" mảnh đất nhỏ hẹp phương Nam, Tổ Tiên ta chỉ xây "CỔNG BẮC QUAN" nhỏ xíu chỉ bằng 1/10 "TRẤN NAM QUAN" của Tàu. Ý nói rằng: Chúng tôi không có ý nhòm ngó đất Bắc, (dù trong lịch sử thời nhà Lý, Tướng quốc Lý Thường Kiệt đã từng cất quân Đại Việt qua đánh hạ 3 thành châu Liêm, Khâm, Ung đất Quảng Châu, Quảng Tây 1075-1076. Ở đây chúng tôi cũng xin nấn mạnh ý nghĩa của từ "Trấn Nam Quan"; đấy là Tàu ở đất Quảng Châu Quảng Tây vẫn còn ngay ngáy sợ quân Đại Việt của Lý Thường Kiệt). Ý của tổ tiên chúng tôi là muốn bày tỏ sự khiêm cung của một nước nhỏ, thưa dân, tài vật ít ... chỉ xây cổng nhỏ.
Một bức bưu thiếp rất đẹp và có giá trị bởi dòng lưu bút của người sử dụng cho biết vị trí Ải Nam Quan và vị trí Ải Bắc Quan, Ải Bắc Quan nhỏ như cái trạm kiểm soát do triều đình An Nam xây cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 17 km. Phía sau là Ải Nam Quan của Trung Quốc xây.Tổ Tiên ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước , muốn đứng vững trước kẻ láng giềng rộng lớn hung hãn, để "thủ đất", để giữ "thế nước" mảnh đất nhỏ hẹp phương Nam, Tổ Tiên ta chỉ xây "CỔNG BẮC QUAN" nhỏ xíu chỉ bằng 1/10 "TRẤN NAM QUAN" của Tàu. Ý nói rằng: Chúng tôi không có ý nhòm ngó đất Bắc, (dù trong lịch sử thời nhà Lý, Tướng quốc Lý Thường Kiệt đã từng cất quân Đại Việt qua đánh hạ 3 thành châu Liêm, Khâm, Ung đất Quảng Châu, Quảng Tây 1075-1076. Ở đây chúng tôi cũng xin nấn mạnh ý nghĩa của từ "Trấn Nam Quan"; đấy là Tàu ở đất Quảng Châu Quảng Tây vẫn còn ngay ngáy sợ quân Đại Việt của Lý Thường Kiệt). Ý của tổ tiên chúng tôi là muốn bày tỏ sự khiêm cung của một nước nhỏ, thưa dân, tài vật ít ... chỉ xây cổng nhỏ.

Cận cảnh hai Ải Nam Quan và Ải Bắc Quan.




Một tốp lính và sĩ quan Pháp trước cổng Ải Bắc Quan.
No comments