7 Sự kiện dẫn đến Cuộc cách mạng Mỹ
7 Sự kiện dẫn đến Cuộc cách mạng Mỹ
1. Đạo luật tem (tháng 3 năm 1765)
|
||
Willard Sterne Randall, giáo sư lịch sử danh dự tại Đại học Champlain và là tác giả của nhiều tác phẩm về lịch sử nước Mỹ thời kỳ đầu, giải thích: “Cho đến lúc đó, mỗi thuộc địa đều có chính phủ quyết định loại thuế nào họ sẽ có và thu chúng"
2. Đạo luật Townshend (tháng 6-7 năm 1767)
Người Mỹ đã đánh trả bằng cách tổ chức tẩy chay hàng hóa của Anh bị đánh thuế, và bắt đầu sách nhiễu các ủy viên hải quan Anh. Trong một nỗ lực để dập tắt cuộc kháng chiến, người Anh đã đưa quân đến chiếm đóng Boston, điều này chỉ làm cho mâu thuẫn thêm sâu sắc.
3. Thảm sát Boston (tháng 3 năm 1770)
Bản in Vụ thảm sát Boston của Paul Revere, năm 1770. |
Khi khói tan, ba người đàn ông - trong đó có một thủy thủ người Mỹ gốc Phi tên là Crispus Attucks - đã chết, và hai người khác bị thương nặng. Vụ thảm sát đã trở thành một công cụ tuyên truyền hữu ích cho những người thuộc địa, đặc biệt là sau khi Paul Revere phân phát một bản khắc mô tả sai sự thật về người Anh là những kẻ xâm lược.
4. Sự kiện Tiệc trà Boston (tháng 12 năm 1773)
Sự kiện Tiệc trà Boston phá hủy trà ở cảng Boston vào ngày 16 tháng 12 năm 1773. |
Điều đó không phù hợp với người Mỹ. Randall giải thích: “Họ không muốn người Anh nói với họ rằng họ phải mua trà của họ, nhưng không phải chỉ có vậy. "Người Mỹ muốn có thể giao dịch với bất kỳ quốc gia nào họ muốn."
Sons of Liberty, một nhóm cấp tiến, quyết định đối đầu trực diện với người Anh. Được ngụy trang thành Mohawks một cách mỏng manh, họ lên ba con tàu ở cảng Boston và phá hủy hơn 92.000 pound trà của Anh bằng cách đổ xuống bến cảng. Để khẳng định rằng họ là những kẻ nổi loạn chứ không phải là những kẻ phá hoại, họ tránh làm hại bất kỳ ai trong số các thủy thủ đoàn hoặc làm hỏng chính con tàu, và ngày hôm sau thậm chí họ còn thay một ổ khóa đã bị hỏng.
Tuy nhiên, hành động thách thức “đã thực sự đánh gục chính phủ Anh,” Randall giải thích. “Nhiều cổ đông của Công ty Đông Ấn là thành viên của Quốc hội. Mỗi người họ đã trả 1.000 bảng Anh - có thể là khoảng một triệu đô la bây giờ - cho một cổ phần của công ty, để có được từ tất cả loại trà mà họ sẽ cạnh tranh và hạ gục những người dân thuộc địa. Vì vậy, khi những người thuộc tầng lớp thấp ở Boston phá hủy trà của họ, đó là một điều nghiêm trọng đối với họ. "
5. Đạo luật không khoan nhượng (tháng 3-6 năm 1774)
Tuy nhiên, một điều khoản khác bảo vệ các quan chức thuộc địa Anh, những người bị buộc tội tử hình sẽ không bị xét xử ở Massachusetts, thay vào đó yêu cầu họ sẽ được đưa đến một thuộc địa khác hoặc trở lại Vương quốc Anh để xét xử.
Nhưng có lẽ điều khoản khiêu khích nhất là Đạo luật Quartering, cho phép các quan chức quân đội Anh yêu cầu cung cấp chỗ ở cho quân đội của họ trong những ngôi nhà và tòa nhà không có người ở trong thị trấn, thay vì phải ở ngoài nông thôn. Mặc dù nó không buộc những người thuộc địa phải đóng quân tại nhà riêng của họ, nhưng họ phải trả chi phí nhà ở và thức ăn cho binh lính. Cuộc cãi vã của quân đội cuối cùng đã trở thành một trong những bất bình được trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập.
6. Trận Lexington and Concord (tháng 4 năm 1775)
Trận Lexington nổ ra vào ngày 19 tháng 4 năm 1775. |
Tại Lexington, lực lượng Anh phải đối đầu với 77 dân quân Mỹ, và họ bắt đầu bắn vào nhau. Bảy người Mỹ thiệt mạng, nhưng những người dân quân khác đã ngăn chặn được quân Anh tại Concord, và tiếp tục quấy rối họ khi họ rút lui về Boston.
Người Anh mất 73 người chết, 174 người khác bị thương và 26 người mất tích. Cuộc chạm trán đẫm máu đã chứng minh cho người Anh thấy rằng những kẻ thực dân là kẻ thù đáng sợ cần phải bị coi trọng. Đó là thời điểm bắt đầu cuộc chiến giành độc lập của Mỹ.
7. Các cuộc tấn công của người Anh vào các thị trấn ven biển (tháng 10 năm 1775-tháng 1 năm 1776)
Mặc dù sự thù địch của Chiến tranh Cách mạng bắt đầu từ Lexington và
Concord, Randall nói rằng ngay từ đầu, vẫn chưa rõ liệu các thuộc địa phía
nam, với những lợi ích của họ, không nhất thiết phải liên kết với các
thuộc địa phía Bắc, sẽ hướng đến một cuộc chiến giành độc lập.
Ông
giải thích: “Người miền nam hoàn toàn phụ thuộc vào người Anh để mua cây
trồng của họ và họ không tin tưởng vào quân Yankees. "Và ở New England,
người Thanh giáo (Puritans) nghĩ rằng người miền Nam lười biếng."
Nhưng
đó là trước khi các cuộc bắn phá tàn bạo của hải quân Anh và đốt cháy các
thị trấn ven biển Falmouth, Massachusetts và Norfolk, Virginia đã giúp
thống nhất các thuộc địa. Ở Falmouth, nơi người dân thị trấn phải vơ vét
của cải và chạy trốn vì cuộc sống của họ, người miền Bắc phải đối mặt với
“nỗi sợ hãi rằng người Anh sẽ làm bất cứ điều gì họ muốn với họ,” Randall
nói.
Geogre Washington, Tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sau khi giành độc lập từ Đế quốc Anh. |
Như nhà sử học Holger Hoock đã viết, vụ thiêu rụi Falmouth đã gây sốc cho Tướng George Washington, người tố cáo nó là “sự dã man và tàn ác vượt quá mọi hành động thù địch được thực hiện giữa các quốc gia văn minh”.
Tương tự, ở Norfolk, nỗi kinh hoàng của những tòa nhà bằng gỗ của thị trấn bốc cháy sau trận pháo kích kéo dài bảy giờ của hải quân đã gây sốc cho người dân miền Nam, những người cũng biết rằng người Anh đang trao quyền tự do cho người Mỹ gốc Phi nếu họ cầm vũ khí cho phe trung thành. Randall nói: “Norfolk làm dấy lên lo ngại về một cuộc nổi dậy của nô lệ ở miền Nam.
Các nhà lãnh đạo của cuộc nổi dậy chiếm giữ việc đốt cháy hai cảng để đưa ra lập luận rằng những người dân thuộc địa cần phải hợp tác với nhau để tồn tại trước kẻ thù tàn nhẫn và nắm lấy nhu cầu độc lập - một tinh thần cuối cùng sẽ dẫn đến chiến thắng của người Mỹ.
Nguồn: HISTORY.COM
No comments